Đánh giá phần Tiếng Việt trong môn Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực
– Từ ngữ chỉ ý so sánh (gọi tắt là từ so sánh)
Trên thực tế mô hình cấu tạo có thể biến đổi ít nhiều:
– Các từ ngữ chỉ phương diện so sánh và chỉ ý so sánh có thể được lược bớt.
– Vế B có thể được đảo lên trước vế A cùng với từ so sánh.
Ví dụ: Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long : lòng mẹ bao la sóng trào.
3. Luyện tập
Yêu cầu HS tìm ví dụ về :
a) So sánh đồng loại
– So sánh người với người :
Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi tới trường, cô giáo như mẹ hiền
– So sánh vật với vật
Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ.
b) So sánh khác loại
– So sánh vật với người:
Ngôi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh.
– So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
4. Các kiểu so sánh
– So sánh ngang bằng: A là B
Ví dụ: Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
– So sánh không ngang bằng: A chẳng bằng B
Ví dụ: Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng.
5. Tác dụng của phép so sánh
So sánh vừa có tác dụng gợi hình, giúp cho việc miêu tả sự vật, sự việc được cụ thể, sinh động; vừa có tác dụng biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc.
Ví dụ: Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng.
Tâm hồn tôi là cái trừu tượng được cụ thể hoá khi ví với buổi trưa hè. Sự so sánh đó thể hiện tình cảm hồn hậu, ấm áp, mãnh liệt của nhà thơ đối với dòng sông, đối với quê hương.
6. Luyện tập
Yêu cầu HS chỉ ra phép so sánh trong một khổ thơ, đoạn văn, một văn bản rồi phân tích tác dụng gợi hình, gợi cảm của phép so sánh mà em thích.
Ví dụ khổ thơ :
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
So với SGK, SGV khi trình bày nội dung so sánh có mở rộng về một số phương diện sau đây:
– Phân biệt so sánh lô gích với so sánh tu từ. Đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác để tìm ra sự tương đồng hoặc đối lập giữa chúng là so sánh lô gích. So sánh nhằm tạo ra cảm xúc cụ thể sinh động, tạo tính hình tượng… gọi là so sánh tu từ.
– So sánh có giá trị đối với quá trình nhận thức, đem cái chưa biết đối chiếu với cái đã biết để qua cái đã biết mà nhận thức, hình dung được cái chưa biết.
– Nói rõ hơn tác dụng của việc lược bớt một số yếu tố nào đó trong cấu tạo của phép so sánh. Ví dụ: Trẻ em như búp trên cành. (Vắng mặt phương diện so sánh- gọi là so sánh chìm- làm cho người đọc có khả năng liên tưởng ở nhiều phương diện: tươi non, đầy sức sống, chứa chan hi vọng…)
– Trong so sánh, vế B luôn luôn được coi là chuẩn so sánh. Có trường hợp vế B được nêu cụ thể đủ rõ để người đọc nhận ra, song cũng có trường hợp vế B được đưa ra không đầy đủ buộc người nghe phải suy luận mới hiểu được. Chuẩn so sánh ở vế B cũng có khi có tính chất mơ hồ, không cụ thể, ví dụ:
Tiếng hát trong như suối ngọc tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Vế B trong so sánh trên – suối ngọc tuyền, gió thoảng cung tiên là những sự vật, sự việc mà ta khó có thể một lần được chứng kiến, và ngay cả tác giả cũng vậy. Song, những so sánh như vậy vẫn gợi cảm, vẫn đầy ấn tượng. Chính nhờ ở những chỗ như thế, so sánh tu từ, so sánh nghệ thuật khác với so sánh lô gích.
Từ việc phân tích các căn cứ trên đây có thể xác các kết quả cần đạt sau khi học bài So sánh như sau:
Như chúng ta đã biết, để xác định các yêu cầu về năng lực cần ĐG cần dựa trên các mức độ nhận thức là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Dưới đây là một ví dụ cụ thể thể hiện việc vận dụng các mức độ nhận thức để xây dựng câu hỏi ĐG cho một nội dung dạy học cụ thể – đó là bài So sánh.
Dự kiến của chúng tôi về việc xây dựng câu hỏi cho bài này thể hiện trên ma trận sau:
Các câu hỏi soạn thảo theo ma trận này ĐG toàn diện mức độ nắm vững những kiến thức, kĩ năng, và khả năng vận dụng những kiến thức, kĩ năng của học sinh sau khi học bài So sánh.
Các câu hỏi trải đều ở các mức độ phân hóa khác nhau (theo các cấp độ tư duy) nhằm ĐG được những năng lực sử dụng phép so sánh của HS và ĐG được tất cả các HS ở những trình độ khác nhau.
Với nội dung (1), ở mức độ nhận biết thì yêu cầu cần đạt đối với HS là nhớ và nhắc lại được định nghĩa về phép so sánh, có thể nhận ra phép so sánh trong các ngữ liệu cụ thể. Với yêu cầu như trên thì GV có thể ra các câu hỏi như sau:
1. Hãy hoàn thành nốt định nghĩa sau:
So sánh là……….
2. Trong câu văn Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc có sử dụng phép so sánh
A. Đúng B. Sai
Để trả lời được các câu hỏi này HS phải nhớ được khái niệm so sánh và nhận biết được nó ở dạng thể hiện đơn giản nhất.
Với nội dung (2), ở mức độ thông hiểu, yêu cầu cần đạt đối với HS là hiểu và phân biệt được các thuật ngữ: sự vật được so sánh (vế A); phương diện so sánh; từ so sánh và sự vật dùng để so sánh (vế B). Với yêu cầu trên GV có thể ra các câu hỏi như sau:
3. Đọc các ví dụ về phép so sánh dưới đây và điền các từ ngữ thích hợp vào cột cho sẵn:
a) Biết chấp nhận khi thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong khi thi.
b) Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất.
4. Phân tích cấu tạo của phép so sánh sau:
Những ngọn cỏ gãy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua.
Để trả lời được các câu hỏi trên, HS cần phải hiểu rõ cấu tạo phép so sánh. Vì chỉ có thông hiểu các thành tố cấu tạo phép so sánh HS mới tìm được ra các thành tố đó trong các biểu hiện cụ thể, đa dạng, phong phú của nó.
Ở câu 3b, thứ tù các thành tố đó không được sắp xếp theo trật tự truyền thống là: vế A: phương diện so sánh; từ so sánh; vế B. mà là: từ so sánh; vế B; vế A; phương diện so sánh.
Ở câu 4, HS cần phải suy nghĩ mới phân biệt được sự vật được so sánh ở đây là “những ngọn cỏ” chứ không phải là “những ngọn cỏ gãy rạp”; phương diện so sánh ở đây là “gãy rạp” chứ không phải vắng mặt.
Từ so sánh là “y như” chứ không phải là “như”. Và sự vật dùng để so sánh là “có nhát dao vừa lia qua” là một cụm động từ. (Điều này khác với kiến thức các em được học: sự vật dùng để so sánh thường là một danh từ hay cụm danh từ (ví dụ: Bóng Bác cao lồng lộng, ấm hơn ngọn lửa hồng).
Ở đây còn có một điều đặc biệt trong cách viết câu của tác giả là có dấu phẩy ngăn cách giữa một bên là vế A và phương diện so sánh với một bên là từ so sánh và vế B. Đó là điều ít thấy trong một phép so sánh bình thường.
Với nội dung (3), ở mức độ vận dụng thấp, yêu cầu cần đạt đối với HS là: có thể sử dụng những hiểu biết về hai kiểu so sánh (ngang bằng và không ngang bằng) để tiếp nhận và tạo lập văn bản. Với yêu cầu trên GV có thể ra các câu hỏi như sau:
5. Phép so sánh trong 2 câu sau có cùng kiểu không, nếu cùng kiểu thì là kiểu nào:
a) Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc.
b) Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lay.
6. Viết một đoạn văn khoảng 3-4 câu trong đó có sử dụng kiểu so sánh ngang bằng và không ngang bằng.
Để thực hiện yêu cầu trên, HS không chỉ cần nhận biết, thông hiểu về các kiểu so sánh mà còn cần phải vận dụng những hiểu biết đó khi phân tích để thấy các so sánh đã cho ở câu 5 dù dùng các từ so sánh khác nhau nhưng chỉ là kiểu so sánh ngang bằng và biết tự mình tạo ra các kiểu so sánh ở câu 6.
Với nội dung (4) ở mức độ vận dụng cao, HS phải vận dụng được những kiến thức và kĩ năng khi học nội dung so sánh để giải quyết các vấn đề ở các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Với yêu cầu như trên GV có thể đặt ra các câu hỏi như sau:
7. Giải thích nghĩa của mỗi thành ngữ sau đây bằng một câu:
A. Ăn ở như bát nước đầy:
B. Học thầy không tày học bạn:
C. Thất bại là mẹ thành công:
D. Lương y như từ mẫu:
8. Phân tích tác dụng của phép so sánh trong câu sau:
Đêm nay con ngủ giấc tròn,
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
9. Cách so sánh của Lý Bạch để ca ngợi Dương Quý Phi trong câu thơ sau có gì đặc biệt so với cách so sánh thông thường?
Ở đây hoa cũng đẹp như người.
10. Viết một đoạn văn (từ 6 đến 8 câu) kể về kỉ niệm sâu sắc của em với một người bạn thân. Trong đoạn văn có sử dụng phép so sánh.
Để trả lời được hai câu hỏi 7, 8 và làm được bài tập 9, 10, HS phải vận dụng được những hiểu biết về phép so sánh, phải có những kiến thức, những trải nghiệm tích lũy được trong cuộc sống hằng ngày để tiếp nhận và tạo lập một sản phẩm giao tiếp.
Đây cũng chính là một tình huống mới mà các em có thể gặp trong cuộc sống, khác với những điều đã được học hoặc được trình bày trong SGK.
Như vậy, ĐG năng lực học tập của HS là ĐG khả năng tiếp thu những kiến thức đã được học, khả năng hình thành các kĩ năng qua việc học tập các kiến thức đó và quan trọng hơn là khả năng vận dụng một cách chủ động, sáng tạo những kiến thức kĩ năng được học, cùng với những khả năng sẵn có để giải quyết các tình huống đa dạng, phức tạp trong nhà trường và ngoài cuộc sống.
Trong đó khả năng vận dụng là vấn đề cốt lõi cần được chú trọng khi ĐG. ĐG năng lực không mâu thuẫn mà được coi là bước phát triển cao hơn so với cách ĐG truyền thống (ĐG kiến thức, kĩ năng). Để ĐG năng lực thì người đánh giá phải tạo cơ hội cho người học được giải quyết những vấn đề trong tình huống, bối cảnh mang tính thực tiễn.
Cách ĐG như vậy mới phù hợp với một chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực mà nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang thực hiện và Việt Nam đang hướng tới.
TS. Phan Thị Hồng Xuân (Trường ĐHSP Hà Nội)
giaoducthoidai.vn